BÀI. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

 

I.  KIẾN THỨC CƠ BẢN

Là loại phong cách ngôn ngữ dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực văn chương, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật khác với các phong cách ngôn ngữ khác ở những điểm cơ bản sau:

1. Tính thẩm mĩ

Văn chương là nghệ thuật ngôn ngữ, là sự thể hiện giá trị thẩm mĩ của ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật, với tư cách là chất liệu xây dựng hình tượng, có sự tổng hoà của ngữ âm và ngữ nghĩa, hoà phối để tạo nên hiệu quả thẩm mĩ.

2. Tính đa nghĩa

Nghĩa của văn bản nghệ thuật gồm nhiều thành phần: thành phần biểu thị thông tin khách quan, thành phần biểu thị tình cảm; thành phần nghĩa tường minh, thành phần nghĩa hàm ẩn. Các thành phần nghĩa này thống nhất với nhau trong những hình tượng nghệ thuật vừa cụ thể, vừa sinh động. Trong đó, thành phần nghĩa hàm ẩn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong văn bản nghệ thuật, biểu thị những suy ngẫm, gợi liên tưởng, tưởng tượng,… tạo nên những tín hiệu thẩm mĩ, những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người.

3. Dấu ấn riêng của tác giả

Mỗi nhà văn, nhà thơ thường có sở thích, sở trường riêng trong diễn đạt. Sở thích và sở trường ấy được bộc lộ ở những tác phẩm có giá trị và tạo thành nét độc đáo, dấu ấn riêng của tác giả.

II. PHÂN TÍCH NỘI DUNG

1. Những loại văn bản nào sử dụng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật?

Gợi ý: Các loại văn bản văn chương (văn xuôi nghệ thuật, thơ, kịch) sử dụng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

2. Nói đến phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, cần phải nhớ đến những đặc điểm cơ bản nào?

Gợi ýTính thẩm mĩtính đa nghĩa và dấu ấn riêng của tác giả là những đặc điểm cơ bản của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

3. Hãy phân tích đặc điểm chung của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện ở bài Phú nhà nho vui cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ.

       Về tính thẩm mĩ của văn bản:

+      Tính thẩm mĩ thể hiện ở cấu trúc văn bản theo thể loại phú: Văn bản Phú nhà nho vui cảnh nghèo thuộc thể bài phú, ngôn ngữ được tổ chức theo hình thức biền văn, có sáu mươi tám vế sóng đôi; hai mươi vế đầu miêu tả nơi ở, cách sống và ăn mặc của một nhà nho nghèo.

+       Tính thẩm mĩ thể hiện ở các yếu tố ngôn ngữ, các biện pháp tu từ tập trung diễn tả nơi ở, cách sống và ăn mặc của một nhà nho nghèo: sự lặp lại, sóng đôi, điệp âm (Chém cha… chém charành rành – ấy ấybình bịch – kho khochát chát chua chua – nhai nhai nhổ nhổ,…; hiệp vần o, ô), đối (Bóng nắng rọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô – Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó,…), lối nói “phô trương” (mọt tạc vẽ sao, nhện giăng màn gió, mối giũi quanh co, giun đùn lố nhố, lợn nằm gặm máng, chuột cậy khua niêu, vỗ bụng rau bình bịch, an giấc ngáy kho kho, áo vải thô nặng trịch, khăn lau giắt đỏ lòm,…),…

       Về tính đa nghĩa của văn bản: Tác giả không dùng chữ nghèo nào mà vẫn miêu tả được cảnh nghèo của hàn nho; Qua việc miêu tả khách quan cảnh sống nghèo (nơi ở, cách sống, ăn mặc), tác giả đã lột tả được cảnh sống nghèo đến cùng cực, đồng thời cho thấy quan niệm, thái độ sống lạc quan của một nhà nho chân chính.

       Về dấu ấn riêng của tác giả: Dấu ấn riêng của tác giả thể hiện nổi bật qua giọng điệu mỉa mai, châm biếm (đặc biệt là ở từ phong vị, hay việc sử dụng ngôn ngữ trong cách nói “phô trương”,…). Cũng qua giọng điệu ấy mà hình tượng tác giả hiện ra với một tư thế vừa ngao ngán vừa ngạo nghễ, bất chấp, ngông,… Nguyễn Công Trứ thường để lại ấn tượng về một cá tính ngang tàng, đậm chất tài tử.

4. Phân tích đoạn thơ sau đây để làm sáng tỏ đặc điểm chung của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song;

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

(Huy Cận, Tràng giang)

Gợi ý: Để phân tích những biểu hiện của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong đoạn thơ trên, hãy tham khảo đoạn văn sau.

“Ngay câu thơ đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang trùng trùng điệp điệp, như nỗi buồn trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thủa. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định. ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng (xuôi mái) theo dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không gắn bó gì với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào? Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.

Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, thân gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi gẫy, khô xác của thân cây.

Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững. Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi bất lực. ở đây không chỉ thuyền buồn, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.”

(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 234-235)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *